Scheme comprehensive innovation basic education is being hotly debated, which is discussing the “philosophy of education” – the central issue must be seen to comprehend prior to the plan and education reform.
Japanese educational reform how
Is the study of the history of education at the University of Kanazawa, Japan and the former translation of “Education Reform in Japan“, I would like to outline the Japanese educational philosophy access – modern to help you read more reference information, pondering.
Talking about educational philosophy will have many interpretations, but I think, given in the narrow sense it is a direct answer to the question: “Education to create human like?”
Looking in a general way, the Japanese education approach – starting from modern Meiji period (1868-1912). At the end of the Edo shogunate, under the pressures of growing Western imperialist countries, low-level fighter force, along the western intellectual learning Japanese forces associated with aristocratic supporters Emperor Mac successfully conducted the island. Meiji government based on new intellectual elite has strong reform education to quickly access modernize the country according to the Western model.
Japanese education in the first 10 years of the Meiji era has introduced powerful currents of thought and scientific achievements Western techniques to attain the goal of “rich country and army“. During this period and later in the Taisho period (1912-1926), whether democratic movement strong penetration, in terms of writing at both the government and the Japanese educators have not fully aware excellent “educational philosophy”. The phrase “educational philosophy” does not appear in the legislation concerning education.
Nguyen Quoc Vuong
Authors Posts: according vnexpress「教育の哲学を「検討している基本的な教育が熱く議論されているスキーム包括的イノベーションは、 – 中心的課題は、事前の計画にして理解するのを見ることがなければならない教育改革。
日本の教育改革方法
金沢の大学の教育の歴史の研究、日本と「日本の教育改革」のかつての翻訳は、私が日本の教育理念へのアクセスを概説したいと思い、か – 現代のあなたがより多くを読む助けるために熟考、情報を参照します。
教育哲学について話すと、それは質問に対する直接の答えである多くの解釈がありますが、私が思うに、狭義で与えます:”のような人間を作成するための教育を?」
一般的な方法で見ると、日本の教育アプローチ – 現代の明治時代(1868年から1912年)から始まる。江戸幕府の最後に、成長している欧米の帝国主義諸国、低レベルの戦闘機力の圧力の下で、貴族のサポーターの天皇に関連した西部の知的学習日本軍に沿ってマックは正常に島を実施しました。新たな知的エリートに基づいて明治政府はすぐに欧米のモデルに従って国の近代化にアクセスするための強力な改革教育を持っています。
明治時代の最初の10年間の日本の教育は、「豊かな国と軍隊」の目標を達成するために思考と科学的成果西洋技術の強力な電流を導入しています。この期間中に、後に大正時代(1912年から1926年)で、民主化運動の強力な浸透するかどうか、政府と日本の教育の両方で書き込みの面で十分に認識していない持っている優れた「教育理念」。語句「教育理念は、「教育に関する法律には表示されません。
グエンクオックヴォン
作家の投稿数:応じvnexpress
Đề án đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đang được thảo luận sôi nổi, trong đó có ý kiến bàn luận về “triết lý giáo dục” – vấn đề trọng tâm cần phải nhìn nhận cho thấu đáo trước khi định ra phương án và tiến hành cải cách giáo dục.
Nhật Bản cải cách giáo dục như thế nào
Đang nghiên cứu về giáo dục lịch sử tại Đại học Kanazawa, Nhật Bản và là người từng dịch cuốn “Cải cách giáo dục Nhật Bản”, tôi xin phác thảo triết lý giáo dục Nhật Bản cận – hiện đại để giúp bạn đọc có thêm thông tin tham chiếu, suy ngẫm.
Nói về triết lý giáo dục sẽ có nhiều cách hiểu nhưng tôi cho rằng, xét ở nghĩa hẹp nó là câu trả lời trực tiếp cho câu hỏi: “Giáo dục định tạo ra con người như thế nào?”
Nhìn một cách tổng quát, giáo dục Nhật Bản cận – hiện đại được bắt đầu từ thời Minh Trị (1868-1912). Vào cuối thời Mạc phủ Edo, đứng trước áp lực ngày một lớn của các nước đế quốc phương Tây, lực lượng võ sĩ bậc thấp, cùng các trí thức Tây học của Nhật Bản đã liên kết với thế lực quý tộc ủng hộ Thiên hoàng tiến hành đảo Mạc thành công. Chính phủ Minh Trị dựa vào tầng lớp trí thức mới đã tiến hành cải cách mạnh mẽ giáo dục nhằm nhanh chóng cận đại hóa đất nước theo mô hình phương Tây.
Nền giáo dục Nhật Bản trong 10 năm đầu thời Minh Trị đã du nhập mạnh mẽ các trào lưu tư tưởng cùng thành tựu khoa học kỹ thuật phương Tây nhằm đạt cho được mục tiêu “phú quốc cường binh”. Trong giai đoạn này và cả giai đoạn sau trong thời Taisho (1912-1926), cho dù trào lưu dân chủ xâm nhập mạnh mẽ, xét ở góc độ văn bản cả phía chính phủ và giới làm giáo dục Nhật chưa hề ý thức sâu sắc “triết lý giáo dục”. Các cụm từ “triết lý giáo dục” cũng không xuất hiện trong các văn bản pháp luật liên quan tới giáo dục.
Tuy nhiên, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nhà nghiên cứu người Nhật cho rằng, trừ khoảng 10 năm đầu thời Minh Trị khi giáo dục còn mang tính chất khai sáng, giáo dục Nhật Bản trước 1945 chịu sự chi phối của triết lý được thể hiện trong “Sắc chỉ giáo dục”, một “thánh chỉ” của Thiên hoàng Minh Trị ban hành năm 1879. “Thánh chỉ” này nêu ra những nội dung đạo đức mang màu sắc Nho giáo mà nền giáo dục Nhật Bản phải hướng tới và yêu cầu nền giáo dục phải đào tạo nên những “thần dân trung quân ái quốc” hết lòng phụng sự Thiên hoàng.
Sau ngày 15/8/1945, Nhật Bản bị đặt dưới sự chiếm đóng của quân đội đồng minh. Dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của Bộ tổng tư lệnh quân Đồng minh (GHQ), Nhật Bản đã tiến hành một cuộc cải cách toàn diện nhằm dân chủ hóa và phi quân sự hóa đất nước. Công cuộc cải cách giáo dục thời hậu chiến (1945-1950) được xúc tiến với sự hợp tác của ba lực lượng: các nhà giáo dục Nhật Bản, các viên chức phụ trách giáo dục và thành viên Sứ đoàn giáo dục đến từ Mỹ. Cuộc cải cách giáo dục này được tiến hành toàn diện từ hệ thống trường học, tài chính giáo dục, cơ cấu tổ chức bộ giáo dục, hệ thống hành chính giáo dục địa phương cho tới khóa trình giáo dục… Thay đổi lớn nhất và trước hết là thay đổi về triết lý giáo dục.
Triết lý của nền giáo dục mới, nền giáo dục mà sau này người Nhật quen gọi là giáo dục dân chủ, được xây dựng dựa trên sự phản tỉnh sâu sắc về nền giáo dục trước chiến tranh và tiếp thu tinh hoa giáo dục Mỹ. Mục tiêu giáo dục giờ đây không phải là đào tạo nên những “thần dân trung quân ái quốc” mà là người công dân có đủ tri thức, phẩm chất, năng lực phù hợp với xã hội hòa bình, dân chủ và tôn trọng nhân quyền. Triết lý giáo dục này được ghi rõ trong các bộ luật luật về giáo dục được công bố trong năm 1947 như: Luật giáo dục cơ bản, Luật giáo dục trường học…
Triết lý giáo dục nói trên đã chi phối và chỉ đạo toàn bộ nội dung, phương pháp và cách thức tổ chức bộ máy hành chính giáo dục Nhật Bản. Hệ thống trường học được đơn giản hóa theo một hệ thống thống nhất với chế độ 6-3-3-4 (6 năm tiểu học, 3 năm THCS, 3 năm THPT và 4 năm đại học). Quyền lực của bộ giáo dục bị giới hạn và quyền tự trị được trao trả cho các trường học. Hệ thống hành chính giáo dục tách rời khỏi hệ thống hành chính chung và Ủy ban giáo dục – cơ quan được tổ chức từ ba thành phần giáo viên, viên chức hành chính và người dân quan tâm tới giáo dục trở thành cơ quan nắm quyền hành chính giáo dục ở địa phương.
Bộ Giáo dục Nhật cũng chuyển từ chế độ “Sách giáo khoa quốc định” sang “chế độ sách giáo khoa kiểm định” và công nhận quyền tự do trong thực tiễn giáo dục của giáo viên. Trong khóa trình giáo dục, môn Nghiên cứu xã hội (Social Studies), một môn học hoàn toàn mới có nguồn gốc từ Mỹ, được đưa vào cả ba cấp học phổ thông.
Về phương pháp giáo dục cũng có sự thay đổi lớn. Nếu như trước 1945, các giờ học diễn ra theo hình thức giáo viên truyền thụ tri thức cho học sinh thì giờ đây lý luận “học sinh là trung tâm” được nhấn mạnh. Độc lập trong tư duy và tự do trong tinh thần trở thành những phẩm chất của người học sinh mơ ước.
Trong cuộc cải cách giáo dục toàn diện nói trên, nghiên cứu Xã hội, môn học tích hợp Lịch sử, Địa lý, Công dân trở thành nơi Bộ giáo dục và các nhà cải cách đặt nhiều kỳ vọng. Trong vai trò là môn học góp phần chủ yếu trong công cuộc tái khai sáng quốc dân, Nghiên cứu Xã hội đã thể hiện tập trung và cụ thể triết lý của nền giáo dục mới. Văn bản chỉ đạo mang tên “Hướng dẫn học tập môn Xã hội” năm 1947 của Bộ giáo dục Nhật Bản nhấn mạnh: “nếu như biết duy trì sự độc lập của bản thân, biết hưởng thụ cuộc sống thực sự là người… thì có thể lý giải được mối quan hệ cùng tồn tại với cuộc sống của người khác và có thể có được ý chí mãnh liệt muốn làm cho cuộc sống của mình trở nên tốt đẹp hơn.
Mục tiêu của môn học giờ đây là những công dân có tư duy độc lập, có tinh thần phê phán. Đó là những “con người không bị đánh lừa bởi đám đông thời thế”, “con người không bị mê hoặc bởi sự tuyên truyền dối trá”. Những con người ấy “không những không xâm phạm người khác mà còn chủ động mở rộng một cách tích cực những điều mình nghĩ tốt đẹp ra xung quanh”.
Để đạt được mục tiêu giáo dục nói trên, nội dung và phương pháp giáo dục môn Nghiên cứu Xã hội được nghiên cứu rất kỹ. Nội dung và phương pháp giáo dục này nhấn mạnh tính chủ thể của học sinh, coi trọng trải nghiệm trong cuộc sống của học sinh và đặt trọng tâm vào học tập giải quyết các vấn đề thiết thực đối với các em. Trong “học tập giải quyết vấn đề” này sự “nhồi nhét” tri thức, “truyền đạt tri thức” bị loại trừ.
Ở đó, học sinh không tiếp nhận thụ động, vô điều kiện các tri thức mà giáo viên đưa ra, coi nó là chân lý tuyệt đối mà học sinh dưới sự trợ giúp, hướng dẫn của giáo viên sẽ phải tìm kiếm các tri thức từ nhiều nguồn khác nhau và biến nó thành tư duy của mình. Có thể nói giáo dục môn Nghiên cứu Xã hội trong giai đoạn này đã chuyển từ “truyền đạt tri thức” sang hình thành và phát triển năng lực nhận thức khoa học cho học sinh.
Như vậy, có thể thấy, ở trường hợp Nhật Bản, cải cách giáo dục giống như một cuộc cách mạng xã hội trong hòa bình. Ở đó, triết lý giáo dục được bàn đến và minh định trước tiên. Triết lý giáo dục này đã chi phối toàn bộ nội dung, phương pháp giáo dục cũng như cách thức tồn tại của nền giáo dục mới và có mối quan hệ rất mật thiết với hiến pháp cũng như các bộ luật về giáo dục.
Nhờ hai cuộc cách mạng xã hội trong hòa bình nói trên Nhật Bản đã hai lần “thoát hiểm”. Lần thứ nhất là thoát khỏi móng vuốt của thực dân phương Tây và lần thứ hai là vượt thoát ra khỏi chính những sai lầm của mình để trở thành một nước hòa bình, dân chủ, văn minh.
Nguyễn Quốc Vương
Tác giả bài viết: theo vnexpress